Cơ cấu kinh tế Kinh_tế_Việt_Nam_Cộng_hòa

Trong vòng 20 năm, xét theo giá trị sản lượng tuyệt đối, công nghiệp tăng khoảng 2,5 đến 3 lần, nhưng xét theo tỷ trọng trong GDP thì hầu như không tăng, chỉ từ 8 - 10% GDP. Vào giữa thập kỷ 1950, giá trị sản lượng công nghiệp theo đầu người của Việt Nam Cộng hòa không kém lắm so với các nước trong khu vực, xấp xỉ bằng Thái Lan. Nhưng từ thập kỷ 1960 trở đi, khoảng cách ngày càng xa, và Việt Nam Cộng hòa đã rơi xuống vị trí thấp nhất trong khu vực. Cho đến giữa thập kỷ 1960, Việt Nam Cộng hòa cũng đứng ở vị trí thấp nhất khu vực về tỉ lệ dân số làm việc trong lĩnh vực công nghiệp[52].

Nông-lâm-ngư luôn chiếm tỷ trọng khoảng 30% GDP. Còn tỷ trọng của khu vực dịch vụ đã tăng nhanh chóng từ 45% lên 60%.

Cơ cấu kinh tế VNCH giai đoạn 1960-1973 (%)[53]
NămNông lâm ngư nghiệpCông nghiệp, xây dựngDịch vụ
TổngCông nghiệpXây dựng
196036,414,512,81,749,1
196134,815,113,61,550,1
196234,113,912,51,452,0
196333,114,713,21,552,2
196432,614,312,91,453,1
196530,614,012,51,555,4
196629,011,910,11,859,1
196735,48,77,61,155,9
196833,98,97,71,257,2
196934,68,26,51,757,2
197038,39,57,71,852,2
197138,110,69,01,651,3
197234,79,38,01,356,0
197334,59,37,91,456,2

Công nghiệp

Tỷ trọng (%) của các phân ngành công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp năm 1973.[54]

Quá trình phát triển của nền công nghiệp Việt Nam Cộng hòa trải qua một số giai đoạn.

  • Giai đoạn 1954-1956: Công nghiệp khá nghèo nàn với số lượng nhà máy ít ỏi có từ thời Pháp thuộc.
  • Giai đoạn 1957-1967: là giai đoạn phát triển nhanh của công nghiệp nhờ chính sách công nghiệp tích cực của chính quyền, viện trợ của Mỹ và các biện pháp bảo hộ nền công nghiệp trong nước.
  • Giai đoạn 1967-1972: có sự phân hóa rõ rệt giữa các phân ngành. Những phân ngành như sản xuất đườngdệt không được bảo vệ nữa nên bị hàng ngoại tràn ngập và bóp chết. Trong khi đó, những ngành như chế biến thực phẩm phục vụ quân nhu, chế biến gỗ, vật liệu xây dựng lại phát triển mạnh. Đặc biệt, ngành luyện kim phát triển rất nhanh mặc dù miền Nam Việt Nam không có những mỏ kim loại. Chính phế thải kim loại của chiến tranh mới là nguồn nguyên liệu dồi dào và rẻ cho ngành luyện kim. Trên cơ sở sự phát triển của ngành luyện kim, ngành gia công kim loại cũng phát triển vượt bậc.
  • Giai đoạn sau 1972: là giai đoạn suy thoái của nền công nghiệp nói chung. Nguyên nhân là thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp dân dụng bị thu hẹp do quân đội Mỹ và đồng minh rút khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, các ngành luyện kim và điện vẫn phát triển với nhiều nhà máy mới được xây dựng. Còn các ngành sản xuất vật liệu xây dựng là những ngành suy giảm mạnh. Cơ cấu công nghiệp của Việt Nam Cộng hòa tại thời điểm 1973 cho thấy công nghiệp của Việt Nam Cộng hòa chủ yếu là công nghiệp nhẹ. Công nghiệp nặnghóa chất mới ở trình độ sơ khai. Nguyên liệu cho ngành chế tạo chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài.

Đến năm 1975, nền công nghiệp Việt Nam Cộng hòa phần lớn là các cơ sở công nghiệp nhỏ: 175 ngàn cơ sở với 1,4 triệu lao động và 800 triệu USD giá trị tài sản cố định. Có khoảng 1% cơ sở có quy mô từ 10 công nhân trở lên, còn lại là dưới 10 công nhân. Công nghiệp nhẹ chiếm 90% giá trị sản lượng của toàn ngành, chủ yếu là đồ uống, thực phẩm, thuốc lá, dệt may...[52] Ngành công nghiệp Việt Nam Cộng hòa chỉ chiếm chưa tới 10% GDP, nhìn chung còn rất nhỏ bé so với nền công nghiệp của Hàn Quốc, Đài Loan cùng thời (những nước cùng nhận viện trợ của Hoa Kỳ nhưng sử dụng viện trợ hiệu quả hơn)[55].

Đến cuối năm 1974, người Hoa kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ và 90% xuất nhập khẩu.[12]

Năm 1973, chính phủ đã tổ chức 2 vòng đấu thầu khai thác dầu lửa ngoài khơi thềm lục địa. Nhiều công ty khai thác dầu lửa nước ngoài đã tham gia, bất chấp là tình hình an ninh chưa ổn định. Chính phủ cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 km² mới chỉ là 16% của thềm lục địa. Tới tháng 10 năm 1974 hãng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ, tại lô 04-TLD, tìm được dầu dưới độ sâu trên 2,7 km. Ước tính là vào cuối 1975, sẽ có ít nhất 20 giàn khoan. Sản xuất một lượng dầu khả quan sắp được bắt đầu muộn lắm là vào cuối năm 1977. Các Công ty dầu đề nghị Chính phủ hai điểm: thứ nhất, cho công ty đào ngay mà không phải qua thủ tục đấu thầu, hành chánh; thứ hai, khi khai thác được dầu sẽ chia đôi, một nửa cho công ty, một nửa cho Chính phủ.[42] Sau 1975, các mỏ dầu này do Liên doanh Vietsopetro của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quản lý và khai thác.

Về địa lý công nghiệp, hầu hết các cơ sở công nghiệp của Việt Nam Cộng hòa tập trung ở Sài Gòn, Gia Định, Biên Hòa. Ba địa phương này chiếm khoảng 85% tổng số xí nghiệp, 90% tổng sản lượng khu vực chế tạo. Hậu quả của sự phân bố mất cân bằng này khá nặng nề: Những vùng tạo ra nguồn nguyên liệu rất quan trọng cho công nghiệp chế biến như nông sản, thuỷ sảnhải sản ở đồng bằng sông Cửu Long phải chuyên chở nguyên liệu lên tận Sài Gòn; Những vùng cung cấp gỗ ở Trung bộ thì quá xa các cơ sở chế biến[10]

Sản xuất công nghiệp của Việt Nam Cộng hòa phụ thuộc nặng vào nước ngoài về trang thiết bị thay thế và nguyên liệu, khoảng 70 - 100% nguyên liệu là nhập khẩu. Từ sau 1970, hàng năm, công nghiệp miền Nam phải nhập 300 triệu USD nguyên liệu và 65 triệu USD thiết bị. Trong công nghiệp đường, năm 1973 phải dùng tới 97,4% nguyên liệu là đường thô nhập khẩu. Trong ngành thuốc lá, 89% sợi thuốc phải nhập khẩu. Trong ngành sản xuất sữa, tỷ lệ đó là 62,8%. Trong ngành dệt, bông để kéo sợi gần như 100% là nhập khẩu từ Mỹ theo chương trình viện trợ nông phẩm. Trong ngành gốm, 53,4% giá trị nguyên liệu cũng là nhập khẩu: cao lanh, các loại hóa chất làm men chịu lửa... Ngành xi măng 42,2% là nguyên liệu nhập khẩu, ngành thuỷ tinh là 41%, ngành kim khí là 65%. Những cơ sở luyện kim trong nước chỉ cung cấp được nguyên liệu cho những mặt hàng thông thường, còn những kim loại có chất lượng cao để chế tạo những bộ phận quan trọng trong máy móc cũng đều phải nhập khẩu. Có lẽ chỉ trừ ngành gạch, ngói thì không cần dùng nguyên liệu nhập khẩu[52]. Những ngành công nghiệp này đa số là yếu kém về hiệu năng và chỉ có thể tồn tại nhờ chính sách ưu đãi của chính phủ và viện trợ của Mỹ. Nếu Mỹ cắt giảm viện trợ thì các ngành này cũng sẽ đình trệ ngay lập tức do không có tiền nhập khẩu nguyên liệu, đó là điều đã xảy ra vào năm 1973[55].

Trong 20 năm, Việt Nam Cộng hòa vẫn chưa tạo ra được công nghiệp năng lượng. Hầu hết nguồn năng lượng là dựa vào dầu nhập khẩu. Mỗi năm, Việt Nam Cộng hòa phải nhập khoảng 2 triệu tấn dầu các loại, vừa để chạy xe và các loại máy nông nghiệp, còn khoảng một nửa để chạy các nhà máy điện.

Nhìn chung, công nghiệp của Việt Nam Cộng hòa không dùng xuất khẩu để tự nuôi nó và nuôi các ngành kinh tế khác, mà được nuôi bằng viện trợ nhập khẩu. Đặc điểm này sẽ trở thành một vấn nạn của nền kinh tế khi viện trợ bị cắt giảm (không có tiền để mua nguyên liệu, phụ tùng thay thế). Theo tính toán của Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo, toàn bộ ngành công nghiệp chế biến hàng năm sử dụng từ 350 đến 400 triệu lít nhiên liệu, và thêm khoảng 600 triệu lít nhiên liệu được sử dụng để sản xuất điện, thì tổng số nhiên liệu cần thiết cho ngành năng lượng là khoảng 1 triệu tấn, mỗi năm cần có khoảng 100 triệu đôla cho nhập khẩu nhiên liệu. Khi viện trợ Mỹ còn dồi dào thì 100 triệu đôla chưa phải là khó kiếm. Nhưng khi hết viện trợ thì thiếu xăng dầu sẽ trở thành một trong những vấn nạn ập đến chỉ sau 1 hoặc 2 tháng vào năm 1974[10].

Nông nghiệp

Nông nghiệp là một khu vực kinh tế quan trọng của Việt Nam Cộng hòa. Các nông sản chính là lúa, cây công nghiệp (đặc biệt là cà phê). Việt Nam Cộng hòa đã có thời gian xuất khẩu cả gạo. Năm 1960 đánh dấu mức cao nhất trong lịch sử kinh tế Việt Nam Cộng hoà, với tổng xuất là 340.000 tấn. Từ sau năm đó, nông thôn bắt đầu thiếu an ninh, xuất cảng gạo xuống dần, và tới năm 1962, còn 85 ngàn tấn. Từ năm 1965, đã có lúc phải nhập cảng gạo.

Sản xuất lúa gạo của Việt Nam Cộng hòa giai đoạn 1953-1958[32]:

NămDiện tích cấy lúa (ha)Sản lượng (tấn)Sản lượng bình quân (tạ/ha)
1953-19541.540.0001.975.84012,8
1954-19551.572.0001.977.42012,5
1955-19562.296.8002.828.90012,3
1956-19572.625.1383.514.62113,3
1957-19582.657.5243.174.00011,9

Năm 1960, Việt Nam Cộng hoà vẫn còn xuất khẩu được gạo với tổng mức là 340.000 tấn, nhưng sau đó do tình hình chiến sự với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, nông thôn bắt đầu thiếu an ninh và sự tàn phá của bom đạn Mỹ khiến sản lượng gạo tụt xuống. Xuất cảng gạo xuống dần, tới năm 1962 chỉ còn 85.000 tấn. Từ 1965 trở đi thì phải chuyển sang nhập khẩu gạo, có năm lên tới 760.000 tấn. So với năm 1939: xuất cảng gạo của riêng Nam Bộ lên tới gần hai triệu tấn. Tới năm 1954 cũng vẫn còn 520.000 tấn[56].

Nhờ những chính sách phát triển nông thôn, từ năm 1970, sản xuất lúa gạo tại miền Nam đã tăng trở lại. Thêm vào đó là nhờ tiến bộ kỹ thuật: loại lúa giống IR-3 phát xuất ở Philippines được đem vào đồng bằng Cửu Long, nhờ phát triển nhanh và tốt, còn được gọi là lúa Thần Nông. Đến năm 1971 thì lúa Thần Nông đã phủ được trên 2,6 triệu mẫu ruộng, bằng 42% diện tích canh tác[42]. Sản lượng lúa năm 1973 là 6,35 triệu tấn, tăng lên so với 4.955.000 tấn năm 1960, gần tới mức đủ ăn. Nhập khẩu gạo năm 1973 giảm xuống chỉ còn 370.000 tấn.[57] Dự tính của Việt Nam Cộng hòa là tới năm 1976 có thể xuất khẩu gạo nếu duy trì được mức tăng này.

Cây công nghiệp được đẩy mạnh để thay thế nhập khẩu: sản xuất thuốc lá đã tới trên 18.000 tấn so với 9.000 tấn năm 1971; mía đường lên trên 900.000 tấn, gần gấp ba mức 1970. Dự phóng cho 1975 là sẽ tăng gấp đôi, tức 1,8 triệu tấn. Ngô bắp thì từ 31.000 tấn (1970), tăng lên trên 50.000 tấn (1974). Đồn điền cao su với diện tích hơn 100.000 hecta vào năm 1968 sản xuất chỉ hơn 20.831 tấn năm 1969 nhưng đến năm 1970 đã đạt 24.100 tấn[58] lại có khả năng phục hồi sản xuất trên 70.000 tấn cao su như mức tiền chiến.[59] Xuất cảng tôm và hải sản từ vỏn vẹn 500.000 tăng lên gần 11 triệu đô la. Dự đoán cho 1975 là 30 triệu. Tổng số xuất cảng năm 1973 lên tới 53 triệu USD, tăng gấp ba lần năm 1972.

Việc cơ khí hóa nền nông nghiệp nhìn chung vẫn còn ở mức kém. Mức độ cơ khí hóa nông nghiệp của Việt Nam Cộng hòa là 0,2 mã lực/mẫu, so với 0,5 mã lực/mẫu của Đài Loan cùng thời. Diện tích sử dụng máy cày không quá 20% tổng diện tích canh tác. Tỷ lệ diện tích đất canh tác được trang bị hệ thống thủy nông còn thấp, các máy bơm chưa đảm bảo tưới nổi 1/10 diện tích nông nghiệp (trong khi tại Thái Lan năm 1962 là 30%, tại Malaixia năm 1966 là 40%, tại Đài Loan năm 1967 là 74%, tại Hàn Quốc năm 1965 là 83%, tỷ lệ trung bình tại các quốc gia Đông Nam Á là 35%). Về mức độ sử dụng phân bón, Việt Nam Cộng hòa đạt mức 150 kg/ha, trong khi đó Đài Loan là 310 kg/ha, Hàn Quốc là 230 kg/ha và Nhật Bản là 400 kg/ha, ở miền Bắc Việt Nam cùng thời cũng đã đạt 300 kg/ha. Toàn bộ phân bón hóa học của Việt Nam Cộng hòa phải nhập khẩu do không có nhà máy phân bón, trong khi ở miền Bắc Việt Nam khi đó sản xuất được 700-800 ngàn tấn/năm[60]

Viện trợ của Hoa Kỳ đã có ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực đến nền kinh tế nông nghiệp. Mặt tích cực là nông dân được mua phân bón, nông cụ với giá rẻ. Mặt tiêu cực là nó đã tạo ra sự cạnh tranh đối với những mặt hàng nông phẩm trong nước, vì giá nông phẩm từ Hoa Kỳ đưa sang được bán với giá rất thấp, đồng thời tạo ra tâm lý lười biếng, thích sống nhờ vào trợ cấp. Viện trợ nông phẩm của Mỹ đã làm tê liệt mọi sức kích thích đối với việc cải tạo và phát triển kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1973, Mỹ giảm viện trợ, sản xuất nông nghiệp đã giảm sút 21%[61].

Dịch vụ

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kinh_tế_Việt_Nam_Cộng_hòa http://www.banknoteworld.com/countries/vietnam_sou... http://www.bbc.com/vietnamese/programmes/story/200... http://www.bbc.com/vietnamese/specials/170_viet_st... http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-45949919.htm... http://pdf.usaid.gov/pdf_docs/PNAAK857.pdf http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/chronology... http://www.viet-studies.info/kinhte/DangPhong_Nguo... http://www.viet-studies.info/kinhte/HoiKy_NguyenHu... http://www.f.waseda.jp/tvttran/en/recentpapers/E03... http://trithucvn.net/blog/truoc-nam-1975-kinh-te-n...